Thiên Hưng đế Lê_Nghi_Dân

Ngày mồng 7 tháng 10, Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân lên ngôi Hoàng đế, đại xá, đổi niên hiệu là Thiên Hưng (天興). Ban ân rộng rãi cho các quan văn võ trong ngoài, mỗi người được thăng 1 tư.[5][11] Trong tháng đó, Nghi Dân sai Nguyễn Như Đổ, Lê Cảnh Huy đi triều cống nhà Minh và xin bỏ việc mò ngọc trai. Sau đó ông lại cử Trần Phong, Lương Như Hộc sang xin Minh Anh Tông phong chức.[5][11]

Ban tờ đại xá, lời văn rằng:

Trẫm là con trưởng của Thái Tông Văn Hoàng đế, trước đây đã được phong là Hoàng thái tử, giữ ngôi chính ở Đông cung. Chẳng may Tiên đế đi tuần miền đông, bỗng băng ở bên ngoài. Nguyễn Thái hậu muốn giữ vững quyền vị, ngầm sai nội quan Tạ Thanh dựng Bang Cơ làm đế, bắt Trẫm làm phiên vương xứ Lạng Sơn. Sau Tạ Thanh tiết lộ việc ấy, lây đến cả Thái úy Trịnh Khả và Tư không Trịnh Khắc Phục, Thái hậu bắt giết cả đi để diệt khẩu. Cho nên từ đó đến giờ, hạn hán sâu bệnh liên tiếp xảy ra, tai dị luôn luôn xuất hiện, đói kém tràn lan, trăm họ cùng khốn. Diên Ninh tự biết mình không phải là con của tiên đế, hơn nữa lòng người ly tán, nên ngày mồng 3, tháng 10 năm nay, đã ra lệnh cho Trẫm lên thay ngôi báu. Trẫm nhờ người trông xuống, tổ tông phù hộ, cùng các vương, đại thần, các quan văn võ trong ngoài đồng lòng suy tôn, xin trẫm nên nối đại thống, hai ba lần khuyên mời, trẫm bất đắc dĩ đã lên ngôi vào ngày mồng 7, tháng 10 năm nay, đổi niên hiệu là Thiên Hưng.[12][13]

— Lê Nghi Dân - Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử

Tháng giêng, năm Canh Thìn (1460), Thiên Hưng đế phong Bình Nguyên vương Lê Tư Thành làm Gia vương (嘉王), Tân Bình vương Lê Khắc Xương làm Cung vương (恭王), đặc biệt cho xây phủ đệ ở bên hữu nội điện cho Gia vương Tư Thành ở.[5][14][15]

Tháng 2 năm 1460, Nghi Dân bàn việc đặt phủ huyện, lại đặt 6 bộ, 6 khoa và các quan ở phủ, huyện, châu.[5][15]

Về lĩnh vực tiền tệ, sau khi lên ngôi, vua Lê Nghi Dân cho đúc đồng tiền "Thiên Hưng thông bảo".

Đồng tiền Thiên Hưng thông bảo, do vua Lê Nghi Dân cho đúc

Bị lật đổ

Tháng 5 năm 1460, các tể tướng đại thần là Đỗ Bí, Lê Ngang, Lê Thụ, Lê Ê bí mật bàn việc lật đổ. Việc bại lộ, tất cả đều bị bắt giết.[16] Sau lần đó, Lê Nghi Dân tin dùng bọn gian nịnh, thay đổi nhiều pháp chế của đời trước, mọi người oán giận.[16]

Các huân hựu đại thần là Thái phó bình chương quân quốc trọng sự Á quận hầu Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Nhập nội Kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự Á thượng hầu Lê Lăng, Tư mã tham dự triều chính Đình thượng hầu Lê Niệm, Tổng tri Ngự tiền hậu quân Á hầu Lê Nhân Thuận, Tổng tri Ngự tiền trung quân Quan nội hầu Lê Nhân Khoái, Tổng tri Ngự tiền thiện trạo doanh quân Quan phục hầu Trịnh Văn Sái, Thiêm tri Bắc đạo quân dân bạ tịch Trịnh Đạc, Điện tiền ty Đô chỉ huy Nguyễn Đức Trung, Thiết đột tả quân Đại đội trưởng Nguyễn Yên, Nhập nội Đại Hành khiển Lê Vĩnh Trường, Điện tiền ty Chỉ huy Lê Yên, Lê Giải, cùng bàn với nhau:

Nay Lạng Sơn vương Nghi Dân rất là vô đạo, đem bọn vô lại Phạm Đồn, Phan Ban, lợi dụng ban đêm, bắc thang trèo thành vào trong cung cấm giết vua và Quốc mẫu Hoàng thái hậu, tội ác không gì lớn bằng. Chúng ta là những bề tôi huân cựu, mắt thấy việc đó, đáng lẽ phải chết cho xã tắc, mà giờ lại ở dưới trướng của kẻ bội nghịch, đứng trong triều của kẻ cướp ngôi giết vua, là tội nhân của muôn đời, đâu còn mặt mũi nào mà trông thấy tiên đế dưới suối vàng nữa?[16]

— Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử

Ngày 6 tháng 6 năm Tân Hợi (1460) triều đình có buổi chầu sớm. Khi tan chầu, những người định làm binh biến ngồi ngoài cửa Sùng Vũ nơi Nghị sự đường. Nguyễn Xí phát động lệnh dẫn quân vào giết các bề tôi tin cẩn của Lê Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban ở Nghị sự đường. Lê Nhân Thuận chém chết Trần Lăng, giữ chặt quân cấm binh, đóng các cửa thành. Hơn 100 người phe cánh của Lạng Sơn vương bị giết. Lê Nghi Dân bị bắt mang ra khỏi cung, bị phế truất làm Lệ Đức hầu (厲德侯) và trao cho một dải lụa bắt phải thắt cổ tự tử, lúc ấy mới 22 tuổi.[16]

Ngày hôm ấy, các đại thần cho đón Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi, tức vua Lê Thánh Tông.[4][5][5]